(A. Javel water), dung dịch muối hipoclorit của các kim loại kiềm (NaOCl, KOCl); muối này không bền, dễ bị phân hủy để giải phóng oxi nên có tính oxi hoá mạnh. Điều chế bằng cách điện phân dung dịch muối clorua kim loại kiềm không có màng ngăn. Nước Javen là tên gọi của chất lỏng được điều chế năm 1789 tại Nhà máy Hoá chất Javen [Javelle - tên của một phường ở tả ngạn sông Xen (Seine), ngoại ô Pari] bằng cách cho khí clo sục vào dung dịch nước của kali hiđroxit (KOH) hay kali cacbonat (K2CO3):
2KOH + Cl2 = KOCl + KCl + H2O
hay K2CO3 + Cl2 = KOCl + KCl + CO2.
Hơn 30 năm sau (1822), Labarac (A.G. Labarraque; 1777 - 1850) - dược sĩ người Pháp đã điều chế Nước Javen với giá thành rẻ hơn bằng cách cho clo tác dụng với Na2CO3:
Na2CO3 + Cl2 = NaOCl + NaCl + CO2 . Nước Javen được dùng làm thuốc thử, chất sát trùng và tẩy trắng.
Trong công nghiệp, nước Javen được điều chế bằng cách điện phân dung dịch muối ăn 15 - 20% trong thùng điện phân không có màng ngăn với cực âm bằng titan và cực dương bằng than chì.
Nước Javen có tính oxi hóa mạnh là do tính oxi hóa của axit hipocloro. Axit hipocloro là axit rất yếu, yếu hơn cả axit H2CO3, trong dung dịch nó bị chuyển hóa theo ba kiểu khác nhau:
HClO ---> HCl + O (1)
2HClO ---> H2O + Cl2O (2)
3HClO ---> 2HCl + HClO3 (3)
Dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời hay sự có mặt của chất khử, sự phân hủy HClO xẩy ra theo hướng 1. Phản ứng 2 xẩy ra khi có chất hút nước. Phản ứng 3 xẩy ra đặc biệt dễ khi đun nóng, điều này giải thích tại sao khi cho khí clo tác dụng với dung dịch kiềm đun nóng lại cho muối clorat.
Khi sảy ra PƯ 1 thì giải phóng oxi nguyên tử. Mà oxi nguyên tử lại có tính khử mạnh nên nước Javen có tính tẩy màu! Nếu nướ Javen để lâu thì sẽ xảy ra các phản ứng phân huỷ HClO ---> nước Javen sẽ mất khả năng tẩy màu và tất nhiên nước Javen ko còn là nước Javen nữa.
( Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam)